Saturday, July 31, 2010

Trận Cuối / Co Dong Va Tham Du DNH Cam On Anh 4 1.8.2010 12:00 NOON




(Tặng Võ Hoàng)
"Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu... nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu..." Sáu Mù hát hai lần trước khi kết thúc bản nhạc và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn:
- Bản này mày ca tới hơn bản Xuân này con không về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại
- Sao vậy ?
- Mày đui, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng "có thấy gì đâu". Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà…
- Ờ...
Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã mười năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :

- Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản "đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm" mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp "một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn" hoài coi nó kỳ thấy mẹ !
- Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày.
- Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt.
- Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng...
- Thôi tao nhớ rồi... Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: "Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa... "
- Nó đó...

- Mà không được đâu...
- Sao vậy ?
- Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ?
- Ờ .
Lần này Sáu Mù " ờ" mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện " trách nhiệm " của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại " nhiệm vụ " và " ý nghiã " này nọ.
Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng... Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng.
Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: "Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ". Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài :
- Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản "Lòng Mẹ"," Con Thuyền Không Bến"...
- Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại.
-... Thì đ.m... người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu!
Thiệt ra cái kêu bằng "chiến tranh tâm lý" này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi.
Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi.
May mắn gặp được anh Hai. Aûnh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh "vớt" hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi.
Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. Từ anh Hai mới có chuyện "chiến tranh tâm lý": "Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. Chung cuộc tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt..."
Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què dượt nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn.
Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự:
- Người ta chán nghe hát tới hát lui "Sài Gòn ơi anh xin hứa rằng anh trở veà" rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào?
- Nhưng mà - Sáu Mù nhỏ nhẹ - bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao?
Anh Hai can thiệp:
- Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ. Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi:
- Chiều nay tụi mày tính "hành quân" ở đâu đây?
- Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi.
- Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à.
- Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi.
- Ðược - anh Hai tán thành – "kế hoạch hành quân" vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi "Giã Từ Vũ Khí" nha, mấy cha. Cái gì mà "trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi", nghe rầu quá hà. Sáu Mù bắt liền:
-... anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây...
- Thôi mà Sáu - Bảy Què dấm dẳn - sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ?
Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ :
- Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: "rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu.." nghe thấy đã.
Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn:
- Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha.
Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối.
Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhè làm cho mọi người chú ý.
Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản "Trên Ðầu Súng":
"Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình. Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng. Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng. Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm. Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn. Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát... "
Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng nói đến "nộ lệ," "cùm gông"... thì quả thực là những chữ lạ tai và đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản "Cờ Bay":
"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên Tổ quốc thân yêu thề chiếm lại nay mai bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung trời ta về với quê hương dang ngóng đợi quân ta tiến về... Ðón nhau về anh đưa em về Gio Linh, Cam Lộ, Ðông Hà. Sạch bóng thù, đồng ta xanh với nắng mới, vang câu hát tự do."
Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đờn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần "nhảy dù cố gắng" để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản nhạc đơn ca "Trên Bốn Vùng Chiến Thuật:
"Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi.."
Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức - cách đây đã mười năm - mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là "tạ từ trong đêm!".
Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn "giã từ ánh sáng" kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng giã của y nữa.
Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân.
Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má gầy đến xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn … thấy rõ!
Ðứa bé bán chuối chiên cẫn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đạt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què.
Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh - dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu - chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh.
Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản "Hội Nghị Diên Hồng":
"Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển... Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?"
- Quyết Chiến!.
Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lai ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống! Lác đác chỉ có người lên.
Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi "chiều" theo mọi người hát đi hát lại bản "Hội Nghị Diên Hồng" đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản "Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây":
"Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc ? Hai vai gầy run rẩy nát tâm can. Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng. Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân. Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng. Súng đạn cầy tan nát luống quê hương... Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than, xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa. Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây..."
Xe đến Tân Cảng, trạm cuối. Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít... thuốc rê! Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói "cảm ơn" nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ... .
Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi :

- Làm cái gì vậy ?

- Về đồn rồi biết...

Bảy Què hốt hoảng :
- Tụi tui làm gì mà bắt chớ ?
- Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa.
Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ "CIA" liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó!
Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng - Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình "thua" rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng ?
Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ.
Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. "Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!" Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy.
Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: "Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã mười năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt đâu mà …"•
Tưởng Năng Tiến

Tuesday, July 27, 2010

THƯ TÂM TÌNH của TPB quê nhà gởi ĐNH kỳ 4 ( Hải Ngoại )


  
Kinh gởi : Cộng Đồng Người Việt Tự Do Hải Ngoại .
Kính gởi  : Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Kỳ 4  ( TA Ơn ANH / TPB VNCH )
Kính gởi :  Ân Nhân Mạnh Thường Quân và Qúy Báo Đài cũng Qúy Ca Nhạc Sỹ Yểm Trợ ĐNH KỲ 4
    
     Thưa Qúy vị  ,  Được dịp viết lá thư này ….. để bày tỏ Tâm Tình với Qúy Vị , Tập thể TPB ở Quê nhà , chúng tôi cảm thấy có được một niềm vui ấm cúng và rất phấn khởi khi biết được tin ĐNH Kỳ 4  sẽ được diễn ra vào tháng 8 , nhằm gây quỹ giúp đỡ cho anh em TPB chúng tôi   ….  
     Đầu thư , chúng tôi kính lời thăm sức khỏe cùng sự bình yên nơi cuộc sống của Qúy Vị Ân Nhân cùng Qúy quyến .
    Qúy vị kính mến , thời gian qua , đã có 3 kỳ ĐNH  diễn ra tại Hoa Kỳ , với nhiều thành quả tốt đẹp và tình thương cùng sự giúp đỡ của 3 kỳ ĐNH  đến cho TPB / VNCH khổ nạn tại Quê Hương , nhờ đó … nương theo sự giúp đỡ này đã có nhiều TPB , đang trong lúc lâm vào tình thế cùng đường tuyệt vọng … chờ chết , nhưng lại không chết , chính nhờ sự giúp đỡ kịp thời của Qúy vị , họ đã vượt thoát hoạn nạn và lần hồi khôi phục lại được cuộc sống , Qúy vị đã tạo duyên lành gíup cho những sự sống , mong muốn sống đã được sống , rồi tiếp theo rất nhiều mảnh đời bi đát , đắm chìm trong khốn khổ , kiệt quệ , đã lần lượt được ngoi lên vươn dậy trong việc mưu tìm miếng cơm manh áo bằng chính tự lực của bản thân , đã không còn làm gánh nặng cho gia đình và cũng đã góp phần hữu ích vào cộng đồng xã hội nhân sinh.
      Qúy vị kính mến ,
      Tập thể TPB chúng tôi , hầu hết … đều trong cuộc sống khốn khổ với hình hài không còn nguyên vẹn , bị sứt mẻ nhiều phần nơi cơ thể trông rất ư là quái dị , lại thường xuyên vương mang nhiều chứng bệnh ( Bệnh lao – bệnh thận – bệnh tim mạch – tiểu đường v.v…. ) do lao lực quá sức vì miếng cơm manh áo , tình trạng như thế đó …  thường bị thế thái nhân tình rẻ rung lánh xa , nhưng trong khi đó thì tình thương của Qúy Ân Nhân trong các kỳ ĐNH luôn ân cần đón tiếp đùm bọc chúng tôi với tấm lòng thương mến trân trọng anh em TPB / VNCH , và Qúy vị đã tìm mọi cách kêu gọi vận động cùng nhau quyên góp tiền bạc trong 3 kỳ ĐNH và đã gởi về cho biết bao nhiêu anh em TPB ở khắp mọi nơi  tại Quê Hương VN này .
     “ CÁM ƠN ANH …  NGƯỜI TPB / VNCH “ ,  Trên tinh này , với nghĩa tình trân trọng của qúy‎ vị dành cho TPB đã giúp cho chúng tôi được dễ dàng vượt thoát khổ nạn , tăng bồi nhựa sống và tăng trợ thêm sức mạnh tinh thần cho TPB / VNCH trên bước sống phấn đấu trước nhiều cay nghiệt khó khăn thường luôn dành phần cho những kẻ tàn phế vì cuộc chiến cho nền Tự Do   ( trước năm 1975 ).
      Và tình thương này , tấm lòng này đã giúp cho chúng tôi những kẻ  Cụt què - Đui mù – Bại liệt…. đầy tự ty mặc cảm , nhưng đã định vị được rõ rang giá trị nhân phẩm và cũng đã khôi phục được  tư cách đáng  qúy của một Cựu chiến binh VNCH …. Đã từng một thời xông pha chiến trận khi xưa .
      Qúy vị kính mến ,
*   Nhiều anh em TPB trong chúng tôi đã bị mù hai mắt không còn nhìn thấy gì cả , nhưng ánh sáng của đôi mắt tâm hồn vẫn có thể  “  nhìn thấy  “ và  cảm nhận được nghĩa tình ấm áp của Qúy Ân Nhân từ phương xa tìm đến quê nhà , đến từng người , từng gia đình TPB , mang đến cho anh em mù lòa nhiều an lành đầy ‎‎ ý ‎‎ nghĩa .
*   Rồi nhiều anh em TPB đã Cụt trụi lũi hai chân hoặc bị Bại liệt nằm một chỗ không còn đi đứng được nữa , nhưng họ vẫn luôn có được niềm vui trong phấn khởi khi biết được rằng ở  Hải ngoại …. Có biết bao nhiêu là đôi chân trụ đứng vững vàng trên lập trường vị tha nhân ái và có biết bao nhiêu là đôi chân trong bước đi Thiện Nguyện trên hành trình cứu giúp TPB tại quê hương .
*   Có rất nhiều anh em TPB  đã Cụt cả hai tay nhưng vui làm sao và cảm kích làm sao khi hiểu được rằng …. nơi đất khách quê người đã có biết bao nhiêu là đôi tay mạnh mẽ kiên trì trong những công việc làm khó nhọc để kiếm ra được đồng tiền , và đã cắt xén tiện nghi cá nhân , tằn tiện sao cho có được đồng tiền gởi về biếu tặng cho anh em chúng tôi trong tình thương vô điều kiện .  Chính đây và từ đây chúng tôi đã có được những viên thuốc tốt để điều trị dứt bệnh , có những miếng ăn ngon dinh dưỡng cho sức khỏe , có được những miếng tôn lợp sửa lại mái nhà tránh được mưa nắng .
     Cũng từ đây và từ đây biết bao sự khởi động tốt đẹp nơi tâm hồn nhiều phát sinh ý‎ nghĩa sống tươi đẹp trong cuộc đời  chúng tôi , những kẻ tan tạ sắp hết phần đời còn lại nhưng vẫn luôn mong được sống và sống sao cho có ý nghĩa .
      Qúy vị kính mến ,
      Những lúc nhận được đồng tiền trợ giúp của Qúy Ân Nhân  từ những kỳ  ĐNH vừa qua đã chuyển đến tận tay  TPB , cầm tờ giấy bạc …. Chúng tôi cảm nhận được nơi những tờ giấy bạc Đô la này đã mang nhiều biết bao nhiêu là giọt dòng mồ hôi công sức khó nhọc của Qúy Ân Nhân đã phải tuôn đổ ra trong làm việc để tạo nên …. và đã dành dụm có được để gởi về giúp chúng tôi , thật xúc động và cảm kích nhiều ….. , ngược dòng thời gian …. Chúng tôi vẫn còn nhớ :  khi xưa  ( trước năm 1975 )  tại chiến trường ngập đầy lửa đạn , và ngay trên bàn mổ xẻ ở các bệnh viện , đang trong lúc bị thương trận nặng nề , với những phần chi thể của thân xác bị đoạn lìa , trong cơn đau oằn oại , sinh lực kiệt quệ và chờ chết thì ngay tức khắc … Máu …. Chính giọt dòng máu tình thương của đồng bào , của anh em chiến hữu đồng đội đã kịp thời tiếp chuyền vào cơ thể những thương binh đang hấp hối và chúng tôi đã duy trì bảo tồn được cái qúy báu vô ngần :  SỰ SỐNG   .   và giờ đây …. Tại đấu trường kiếp sống đầy cam go , khổ nạn …. Thường luôn trĩu nặng lên cuộc đời của những sự sống tàn phế và đang trong lúc sa cơ khốn khổ vì bệnh tật , vì hoạn nạn quẩn bách , tắt lối cùng đường … thì ngay tức khắc Máu …. Cũng là Máu ….chính giọt dòng huyết hống tình thương của Ân Nhân , Mạnh Thường Quân , của anh em chiến hữu khắp mọi nơi đã quy tụ về trong các kỳ DNH và Tình Thuong kết nối Tinh Thuong tại nơi đây đã biến thể ra thành những đồng tiền cao qúy đầy nghĩa tình …. Tiếp chuyển vào cuộc sống khốn khổ của TPB / VNCH ….. đã giúp chúng tôi được ngoi lên , vươn dậy phấn đấu trên bước sống làm người trong DANH DỰ và TRÁCH NHIỆM .   quả thật …. “  Trái Tim chuyền Máu cho Trái Tim
     Qúy vị kính mến ,
     Đi đến cái chết có thể còn rất lâu như những ai đã tưởng , nhưng lại là rất mau khi thân xác buông thỏng xuôi tay nhắm mắt và hoại tử bốc mùi , lúc đó thì … rất mau cho một cây thịt vô tri 
“ bị đi “  đến nấm mồ .  Qủa thật …. rất lâu như đã tưởng…. . nhưng lại là rất mau … như không ngờ . Và cho dù lâu hay mau , thì quãng đời còn lại của những anh em TPB khi được tấm lòng Thiện Nguyện của Qúy Ân Nhân đùm bọc , và khi được nghĩa tình chiến hữu giúp đỡ thì chúng tôi luôn tâm niệm rằng  …. Vẫn còn sống , còn tỉnh táo thì cuộc đời vẫn còn hữu ích và tiến hóa cải thiện trong tinh thần :   SỐNG TỐT ĐẸP – CHẾT Ý NGHĨA .
     Qúy Ân Nhân kính mến ,
     Hướng đến Qúy vị với tất cả chân tình qúy mến , chúng tôi không biết nói gì thêm cho cạn tình trọn nghĩa ,  xin nhận nơi đây tấm lòng Biết Ơn chân thành cùng tất cả những lời cầu nguyện tốt đẹp nhất cho ĐNH kỳ 4 được thành công mỹ mãn.
                                           Saigon ngày 26 tháng 7 năm 2010 .
                                                   Tập thể TPB Quê nhà

Sunday, July 18, 2010

TPB/QLVNCH July 2010


Duoi day la hinh,ten ho va dia chi cua tung anh mot.Tat ca cac anh deu song tai huyen Tan Uyen,tinh Binh Duong .
 Le Kim Hieu .To 4 khu ,pho 8, xa Uyen Hung,huyen Tan Uyen,Binh duong.
Le Van Tai: 473 ap 3 ,xa Hoi Nghia,Tan Uyen,Binh Duong .Phone 0650-3648-096.
Nguyen Van Ngoc:116 ap 1,xa Tan Dinh,Tan Uyen ,Binh Duong: Phone 0650-3682-068.
To Van Binh :126/E Khu pho 5, Uyen Hung,Tan Uyen,Binh Duong .phone 0977-779-249.

Le Van Tai: 473 ap 3 ,xa Hoi Nghia,Tan Uyen,Binh Duong .Phone 0650-3648-096.

Nguyen Van Ngoc:116 ap 1,xa Tan Dinh,Tan Uyen ,Binh Duong: Phone 0650-3682-068.
To Van Binh :126/E Khu pho 5, Uyen Hung,Tan Uyen,Binh Duong .phone 0977-779-249.
#..Xin cap cuu cho mot tpb benh nang ..tha thiet mong muon DUOC SONG ....
#########################Tap the tpb que nha keu goi tinh thuong an nhan ...xin den gia dinh tpb TRAN VAN DANG :
TPB    TRẦN VĂN ĐĂNG -    Sinh năm :  1941 .
Số quân :  41 / 311357 -       Cấp bậc : Binh nhất .
Đơn vị :  Địa Phương Quân -  Chi khu GÒ CÔNG .
Họ và tên Chu Khu Trưởng : Đại Úy  TẦN .
Bị thương tại chiến trường :  Thuộc địa phận Xã THÀNH CÔNG .
                                              Tỉnh GÒ CÔNG - Tháng 4 năm 1968 .
Vết tích thương tật :  Cụt 1 đùi chân trái .
Hoàn cảnh :   1 Vợ - 4 con - Cảnh song bi dat , bi benh hon mot nam qua - không tiền lo thuốc thang .
Hiện đang bị vết thương ở đường ruột -  viêm sưng - Chờ giải phẫu nhưng không có tiền .
Địa chỉ : Số 1219 -  , Ap Xa Loi ,..Xã TÂN TRUNG - Thi xa GÒ CÔNG ĐÔNG - Tỉnh TIỀN GIANG.
Số  Điện Thoại :  0169 . 8664750
.



 



#..TPB  : NGUYỄN XUÂN KHAI  . - Sinh năm 1945 .
Số quân :  65 / 100189 -   Cấp bậc : Thiếu Úy  .
Đơn vị : Đại  Đội 1 -  Trinh sát Nhảy Dù .
Họ và tên : Đại Đội Trưởng :  Thiếu Tá : NGUYỄN VĂN DŨNG .
Họ và tên : Tu lenh Sư Đoàn  : Chuẩn Tướng : DƯ QUỐC ĐỐNG .
Bị thương tại chiến trường : QUẢNG TRỊ - Gần sông MỸ CHÁNH . Ngày 5 / 7 / 1973 .
Vết tích thương tật :  Cụt hai đùi chân - mất hai ngón tay phải -
và còn sót nhiều miểng đạn trong phổi .
Hoàn cảnh : 1 Vợ  3 con -  Sức khỏe yếu - tuổi đã cao - sống nương tựa vào 2 đứa con .
 Địa chỉ :  157  - Đường Trần Quang Diệu - Khu vực 1 - Phường An Thới -
Quận BÌNH THỦY -  Thành phố  CẦN THƠ .
Số CMND : 361931285     - Điện thoại :  071 -  2472578
.
Chu thich : tpb/ NGUYEN XUAN KHAI..tot nghiep khoa 25/1964 DONG DE va tu thang 7/1964 den nam 1970, phuc vu trong don vi thuoc luc luong dac biet (lien doan 77 ) va sau do...duoc thu huan khoa SQDB ) tot nghiep khoa 4/ 1970 (khoa si quan dac biet THU DUC )   

TPB :  PHẠM VĂN BẰNG -    Sinh năm :  1956 .
           Số quân  :  56 / E-02260 
      Cấp bậc :  Binh nhì .
           Đơn vị :  Trung Đội 74 -    Chi Khu  ĐỨC HÒA -  Tỉnh HẬU NGHĨA .
           Họ và tên Trung Đội Trưởng :  LÊ VĂN SINH .
           Bị thương tại chiến trường :  Kênh  BÒ NỔI - Huyện ĐỨC HÒA .
           Ngày 16 / 11 / 1964 .
           Vết tích thương tật :  Cụt hai chân trên đầu gối .
           Hoàn cảnh  :   1 Vợ  4 con - Các con lớn ỡ riêng - Chỉ còn hai vợ chồng già .
           Địa chỉ :  Số nhà 368 -     Ấp 4  - Xã ĐỨC HÒA ĐÔNG -
           Huyện  ĐỨC HÒA  - Tỉnh LONG AN .
           Số điện thoại :  072 . 3777014  -           DTDĐ : 0932457037

Yem Tro TPB QLVNCH


Saturday, July 17, 2010

TPB/QLVNCH 2010

 
TB Nguyễn Văn Thọ : Sinh Năm 1943. Đơn vị Đại Đội 4 / Tiểu Đoàn 207. ĐPQ. KBC 7474 ( Tên Tiểu Đoàn Trưởng Đổ Xiếc ). Tên Đại Đội Trưởng : Trung Uý Nguyễn Phương Bình. Bị thương tại chiến trường : Nhà Đá / Chi khu Phù Mỹ, Tiểu Khu Bình Định ngày 01 tháng 11năm  1974. Vết thương tật mù 2 mắt, cụt 2 tay. Hoàn cảnh 1 vợ 3 con. Con gái lớn bị Câm không có chồng. Con trai 14 tuổi và con gái 13 tuổi đi bán vé số dạo. Bản thân anh Thọ làm  nghề hành khất xin ăn nơi vĩa hè.  
Số Điện Thoại, 01223887335.  
Điạ chỉ 79 D .Khu Phố Long Lâm.Thị Trấn Long Điền. Huyện Long Điển. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Việt Nam



TB Đàm Minh : sinh năm 1939. Số Quân : NQ 810091  cấp bậc Nghĩa Quân viên. Đơn vị Nghĩa Quân Chi Khu Châu Thành ( Tỉnh Phong Dinh Cần Thơ ) Bị thương tại chiến trường thuộc điạ phận cầu Cái Khê thuộc Tỉnh Cần Thơ, Thương tật Mù 2 mắt cụt 1 tay, gãy xương chân phải. Hoàn cảnh độc thân sống nương nhờ đứa em gái nuôi dưỡng, thường bệnh cao huyết hoàn cạnh khó khăn vì tàn phế nặng không có tiền lo thuốc men chữa trị.  
Điện thoại. em gái Đàm Minh 07103752799.  
Điạ chỉ 9 /6 Nguyễn Thị Minh Khai. Hẻm 9. Quận Ninh Kiều. Thành Phố Cần Thơ Việt Nam


 TB  Nguyễn Thắng :sinh năm 1948 Số quân : 48 / 734869. cấp bậc Binh Nhất. Đại Đội 967 ĐPQ, thuộc Chi Khu Thuận Hoà / Ba Xuyên ( Sóc Trăng ) Họ và tên Chi Khu Trưởng : Thiếu Uý Nguyễn Văn Sĩ. Bị thương tại chiến trường Thuận Hoà Tỉnh Sóc Trăng. Thương tích Cụt 2 tay Mù 2 Mắt. Hoàn cảnh độc thân sống nương nhờ em gái nuôi dưỡng .  
Số diện thoại em gái 00169 8066471.  
Địa chỉ 65. Ấp Mỹ Lợi / C. Xã Mỹ Tú. Huyện Mỹ Tú. Tỉnh Sóc Trăng. Việt Nam

Tuesday, July 13, 2010

Cam On Anh Nguoi Thuong Binh VNCH / Hay Tham Du DNH Cam On Anh IV 15.8.2010



Hội của 'Hàng chục ngàn người 'bên ngoài' giúp hàng chục ngàn người 'bên trong'
Wednesday, July 07, 2010 Bookmark and Share

Thăm Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH
Ngọc Lan/Người Việt


WESTMINSTER (NV) - “Nếu cứ vì một hai lời nói chỉ trích mà mình buồn lòng bỏ cuộc thì ai sẽ làm đây? Ai sẽ giúp cô Hạnh Nhơn đây?”
“Rất vui khi những việc mình làm giúp ích được cho các thương phế binh, rồi cũng là giúp cho chị Hạnh Nhơn. Bởi chị đã lớn tuổi như vậy mà vẫn còn làm, nếu mình mà nghỉ thì sẽ thấy tội lỗi lắm, nên cứ tiếp tục hoài.”
Ðó là những lời chia sẻ của cô Tú Quỳnh, cô Ðào, và nhiều người nữa, những người đã gắn bó bền bỉ suốt bao năm qua cùng Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh - Quả Phụ VNCH do bà Hạnh Nhơn làm chủ tịch.
Một không khí làm việc 'lạ lùng'
Tôi đến thăm nơi làm việc của hội, cũng chính là nhà riêng của bà Hạnh Nhơn, để tận mắt thấy không khí làm việc “lạ lùng” của họ, những người trong Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH.
Không lạ lùng sao được, khi biết rằng những người điều hành công việc giúp đỡ, bảo trợ cho gần 18 ngàn thương phế binh và quả phụ nơi quê nhà từ bao nhiêu năm qua, chỉ là một nhóm chưa đầy 10 “cụ ông, cụ bà,” như lời một người trong nhóm nói, bởi người trẻ nhất trong số họ cũng đã cập kề... 65.
Những người trong Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH đang làm công việc sổ sách giúp đỡ thương binh, quả phụ còn nơi quê nhà và chuẩn bị cho Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh lần 4” vào ngày 1 tháng 8 tới đây. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Chú Ức, một cựu trung tá Không Quân, gò chữ trên từng phong bì gửi thư cám ơn và biên nhận thu tiền đến mỗi ân nhân, “dù chỉ $10, $20 vẫn phải gửi lời cám ơn.”
Cô Hạnh Nhơn, người góa phụ với gương mặt phúc hậu đã 83 tuổi, miệt mài viết từng tấm thiệp mời gửi đến các hội đoàn, mạnh thường quân, mời họ cùng đến dự Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh lần 4.”
Cô Thanh Thủy, một “Thiên Nga bị 13 năm tù” trước đây, tỉ mỉ ghi chép, xem xét lại danh sách khoảng 5,000 quả phụ cần được giúp đỡ trong thời gian tới.
Cô Ðào, vợ chú Ức, một thiện nguyện viên nhiệt thành, chăm chú vào sổ những hồ sơ mới gửi tới, dò xem có hồ sơ nào bị trùng lắp không.
Cô Tú Quỳnh, 17 năm gắn bó cùng hội, cùng cô Hạnh Nhơn, đi lấy thư từ hộp thư về, rồi lần giở những lá thư cám ơn, thư yêu cầu giúp đỡ, từ khắp nơi gửi về để xem mình phải nên làm gì.
Chú Tiến, một cựu sĩ quan Không Quân, mày mò gõ những số liệu từ các quyển sổ viết tay vào máy vi tính để có thể “lưu giữ lâu dài hơn.”
Mỗi người một việc. Họ làm chăm chỉ, vào mỗi Thứ Hai và Thứ Tư hằng tuần, từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Có người làm việc tại nhà. Có người còn phải ôm thêm hồ sơ về nhà làm tiếp, khi thấy không xong. Ròng rã suốt nhiều năm như vậy, không thù lao, không nề hà một lời cám ơn.
Có người đã làm cả 17 năm, như cô Tú Quỳnh, có người vài năm như cô Thủy, chú Ức, cô Ðào, có người vài tháng như chú Tiến. Lý do làm việc của họ thật đơn giản: “Thấy mọi người làm cực quá thì mình vào giúp chứ làm sao bây giờ.”
Tiền của thương binh, quả phụ, không được xài bừa bãi
Giọng Huế nhỏ nhẹ, cô Hạnh Nhơn cho biết: “Hội bắt đầu có từ năm 1992, khi những người HO sang, mang theo danh sách của một số thương phế binh còn ở quê nhà.”
Bà Hạnh Nhơn, người chủ tịch Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH, đã 83 tuổi vẫn miệt mài “còn thở là còn làm việc” vì thương binh, quả phụ. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Cô kể, khi mới qua thì chưa ai có tiền, đến lúc có việc làm, có tiền, những người HO bắt đầu gửi chút ít về cho đồng đội kém may mắn còn kẹt lại quê nhà. “Tiếng lành đồn xa,” sự giúp đỡ lan truyền ra, từ vài người, lên đến hàng trăm, rồi lên hàng ngàn. Và họ bắt đầu xin phép lập hội, “đến năm 1993 thì Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH chính thức hoạt động.”
Cô Hạnh Nhơn, người chủ tịch đương nhiệm, làm việc với hội từ năm 1996, đến 2006 thì bắt đầu làm hội trưởng đến nay.
Sau 17 năm, hiện số thương binh quả phụ mà hội giúp đỡ đã lên đến con số 18, 19 ngàn người. Bên cạnh đó, với mục tiêu và uy tín của mình, hội nhận được sự giúp đỡ của mấy mươi ngàn ân nhân từ khắp mọi nơi.
“Có người tội lắm, mỗi tháng $20, $50 thôi, nhưng tháng nào cũng gửi, rồi có người $100, vài ba trăm, có khi cả ngàn. Lòng của ân nhân thiệt là rộng rãi.” Cô Hạnh Nhơn nhận xét.
Mỗi tuần, trung bình hội nhận được từ khoảng $1,500 đến $2,000 tiền của các ân nhân gửi tới. “Nhờ đó mới có thể gửi về cho mọi người khi cần thiết.” Chủ tịch hội nói.
Tùy theo từng trường hợp của mỗi người mà hội sẽ gửi về cho $200, $100 hay $50. Số tiền đó có thể không là bao so với nhiều người, nhưng trong nhiều trường hợp, lại như một cứu cánh giúp ai đó thoát khỏi cuộc sinh tử.
Cô Tú Quỳnh kể có trường hợp một gia đình nhận được $100. Họ gửi thư sang cám ơn, và nói: “Cả gia đình đã quỳ xuống lạy tạ ơn trời đất và hội đã cứu giúp họ.” Cô Quỳnh nghẹn giọng: “Chính những điều đó mà khi làm công việc này rồi thì không dứt ra được.”
Tiền nhận được, có thủ quỹ mang bỏ vào nhà băng. Mỗi trường hợp ký cho ai, đều có giấy hồi báo hẳn hoi. “Những tấm 'check' đầu tiên vẫn còn được chúng tôi giữ đến bây giờ.” Cô Hạnh Nhơn cho biết.
Có trường hợp thư gửi đến xin giúp đỡ nhưng lại không phải là thương binh hay quả phụ, nên “Hội không có quyền lấy tiền đó ra cho.”
Không cho bằng tiền dành cho thương binh quả phụ, nhưng cũng không thể làm ngơ được, vậy là những người “ăn lương Obama để làm thiện nguyện” đó tự móc tiền túi ra để giúp đỡ.
Họ cứ làm như thế.
Không vì một điều gì.
Chỉ đơn giản, “mình không thể làm ngơ khi đã biết có người bất hạnh hơn mình.” Những người trong hội đã nói, và làm như vậy.
“Ai mà không buồn khi nghe lời chỉ trích, nhưng ...”
“Cảm nghĩ của các cô chú là như thế nào khi nghe có nhiều lời ra tiếng vào, đàm tiếu, dị nghị về công việc của hội?” tôi hỏi.
“Buồn lắm chứ, nhưng thôi kệ, cứ nghĩ mình đi trên một con đường mà chỉ vì vài cái gai đâm vào chân mà mình bỏ cuộc thì mình thất bại quá. Hơn nữa chỉ vì những lời không hay kia, mình buông ra, không làm nữa thì ai sẽ giúp những người thương phế binh đây?” Cô Tú Quỳnh trả lời.
Cô tâm sự, lúc mới làm công việc này, cô không thấy có gì “hấp dẫn” cả. Nhưng về sau cứ đi nhận thư, đọc thư thấy có nhiều trường hợp thương tâm tội nghiệp quá, cô nói: “Thấy mình may mắn đã thoát qua đây, trong khi những người thương binh kia bị tàn phế khi tuổi đời còn rất trẻ, rồi mang thương tật đó suốt cuộc đời. Nên tôi càng làm càng lún sâu, không dứt ra được.”
Chú Tiến, người đang làm công việc “vi tính hóa” những sổ sách xưa nay, xúc động nói: “Tôi là cựu quân nhân Không Quân, và tôi vẫn cảm thấy mình chưa tròn trách nhiệm của một quân nhân nên thấy mấy anh chị em ở đây hy sinh như vậy, lại nghĩ đến bạn bè mình còn ở lại Việt Nam, thấy những tình cảnh đáng thương như vậy nên có thì giờ tôi tình nguyện lên đây, làm được gì thì cứ làm.”
Chú Tiến nhắc đi nhắc lại niềm mong mỏi “có anh em nào khá về computer hay có lớp trẻ đứng ra phụ giúp một tay” để mọi việc dễ dàng hơn cho những “cụ ông cụ bà” này.
Nếu những người khác tham gia làm thiện nguyện một mình, thì chú Ức “thấy mọi người làm việc cực quá, nên về bàn với vợ: ‘mình cũng đã về hưu, thôi thì rủ nhau đến phụ một tay, dù tôi không phải là người H.O’”
“Tôi làm công việc này vì những chiến hữu của mình, vì biết đâu có những anh em từng ở cùng đơn vị với mình trước đây giờ còn kẹt lại quê nhà.” chú Ức suy nghĩ.
Không chỉ có cô Quỳnh, mà tất cả mọi người đều cho biết “là người, khi nghe những lời không đúng, ai lại không buồn,” và “khóc nữa” vì “tức nghẹn.” Và đâu chỉ dừng lại ở những lời nói vu vơ, có người còn lên báo với sở thuế để đến kiểm tra công việc của hội.
Cô Hạnh Nhơn kể: “Người đến thanh tra xem xét kỹ càng tất cả hồ sơ, từ tấm check của thuở đầu tiên, đến tất cả mọi thứ giấy tờ đều được hội giữ lại. Thư từ, hồi báo, có đủ hết. Ðiều đó chứng minh được sự minh bạch của mình. Giờ thì có lẽ đã hiểu hết rồi.”
Cô Ðào nhẹ nhàng nói: “Nhiều lúc nghe nói cũng ức cũng khóc. Nhưng nếu cứ vì một hai lời nói mà mình buồn lòng bỏ cuộc thì ai sẽ làm đây? Ai sẽ giúp cô Hạnh Nhơn đây? Năm nay cô ấy cũng đã 83 tuổi rồi.”
Và, như một dòng chữ trong bức thư cám ơn của một thương binh gửi đến từ quê nhà đã viết, “Việc làm của hội khiến những thương phế binh chúng tôi không còn mặc cảm bị bỏ rơi.”
Bấy nhiêu đó, đủ là nguồn động viên giúp họ, những người trong Hội HO Cứu Trợ Thương Binh-Quả Phụ VNCH âm thầm làm việc miệt mài, cần mẫn, nhất là để chuẩn bị cho đại nhạc hội 'Cám Ơn Anh lần 4” sẽ được tổ chức vào ngày 1 tháng 8 tới đây.

Thursday, July 8, 2010

Ta On Anh Nguoi Thuong Phe Binh VNCH / Hay Tham Du DNH Cam On Anh IV 15.8.2010


















Câu Chuyện Người Thương Binh


Lần đầu tiên khi trở về VN vào mùa Hè/2000, và điều đầu tiên tôi nghĩ đến là đi thăm một người thương binh VNCH. Hắn là Thiếu Úy Phạm Minh Châu, chi đội trưởng của chi đoàn 1/ Thiết đoàn 10 kỵ binh/ SĐ 25BB. Thiếu úy Châu tốt nghiệp khóa 9C/72 đồi Tăng Nhơn Phú CƯ AN TƯ NGUY và cũng là người bạn đồng hương thân thiết từ khi còn mài mòn đũng quần dưới mái trường trung học. T/U Châu, hắn đã bỏ lại một đoạn chân trái từ nữa đùi trên ở chiến trường Bình Dương trước 30/04/75 khoảng vài tuần lễ. Cũng như những người thương binh khác, hắn bị đuỗi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày 02/05/75 khi vết thương còn rỉ máu, thật là quá tàn nhẫn đối với những người thương binh VNCH trong giờ thứ 25 của cuôc chiến.

Tôi đến thăm Châu một lần trước khi bị đưa vào lò tàn phá dung nhan (nhà tù cải tạo) của Cộng Sản. Năm năm sau khi ra khỏi tù, trở lại thăm Châu – lúc bấy giờ hắn là một người thợ may què (hỏi thăm láng giềng họ chỉ đó là nhà của Châu què) trong căn nhà lá xiêu vẹo ở một vùng quê với người mẹ già và một người em trai bệnh hoạn. Hỏi thăm về cuộc sống, Châu trả lời: “đôi khi thì cũng đũ, nhưng chỉ là cơm với muối ớt hay tiêu kho quẹt – còn thường xuyên thì phải độn đọt mì, đọt lang hay chỉ là củ khoai mì, khoai lang mà thôi, khổ lắm mày ơi !”. Tôi không khỏi xót xa và không cầm được nước mắt sau tiếng thở dài cùa Châu hết sức não nuột. “Còn về đời sống tinh thần thì sao hở mậy?” tôi hỏi tiếp và Châu trả lời: “ban đầu thì cũng giấy mời họp tổ, học tập chính trị, thế này thế kia, nhưng tao lì chả thèm đi đâu cả, sau cùng bọn nó đưa Công an tới hù dọa đưa tao đi cải tạo” – “nếu các ông đưa tôi đi cải tạo có khi còn sướng hơn là tôi phải ngồi đây suốt với cái chân què trên bàn máy mà không đũ cái ăn, các ông muốn làm gì thì làm bụng đang đói tôi không thể đi họp , học gì cả” Châu đã trã lời với bọn tay sai quỉ đỏ như thế rồi sau đó bọn chúng thấy không thể làm gì được người phế nhân liều mạng này chúng đành thôi và không quấy rầy Châu nữa.

Từ đó, thỉnh thoảng tôi đến thăm Châu khi thì vài lít gạo, lúc ít con khô đù và cũng có khi một vài xị rượu đế với mấy con khô khoai và 2 đứa cùng nhăm nhi cùng kễ nhau nghe chuyện đánh đắm ngày xưa. Đó là những lúc tôi thấy Châu vui như pháo tết và say sưa kễ lại những cuộc chạm súng với cộng quân trên chiến trường Bình Dương trong những ngày tàn của cuôc chiến. Lúc kết thúc những câu chuyện này thì thường thì là những tiếng than trong hơi thở dài ngao ngán “Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu”.

Trước ngày lên máy bay đễ xa rời đất Mẹ VN, tôi đến thăm Châu để từ giả tôi nói “thôi mày hãy cố gắng tồn tại trên quả đất này và hy vọng tao mày sẽ gặp nhau và uống rượu đế” sau câu nói này của tôi thì từ nơi khóe mắt Châu 2 dòng nước mắt tuôn dài, tôi bước vội đi thật nhanh mà không dám quay nhìn lại. Trong đầu tôi đang nghĩ Châu đã mất tất cả; một phần thân thể cho quê hương, tương lai, tình yêu (nàng của Châu cũng đã biệt vô âm tính sau khi đưa Châu từ vĩa hè Tổng Y Viện Công Hòa về đến gia đình Châu đễ kết thúc một chuyện tình thời chinh chiến) và sự nghiệp. Thời gian qua, thỉnh thoảng tôi đến với Châu trong cái tình tuổi học trò và tình huynh đê chi binh, cái còn lại duy nhất trong cuộc đời của người phế binh bất hạnh, rồi bây giờ nó cũng sắp sửa mất luôn. Chắc là không còn nỗi đau nào hơn nữa đến với nó, thần sắc nó lúc này giảm đi rất nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng đó là lần sau cùng tôi gặp nó, Châu đã vĩnh viễn ra đi sau hơn một năm tôi rời bến khổ.

Nghe Má Châu nói lại, trong những ngày bệnh trỡ nặng, và trước lúc trút hơi thở sau cùng Châu còn thiều thào hỏi Má, “thằng Đ..(tên tôi) có thư về thăm con không Má ? – Tôi rất ân hận vì đã không viết thư thăm Châu trong những ngày đầu tôi đến Mỹ, mãi đến gần 2 năm sau tôi mới viết thư về thăm hắn và chẳng bao giờ nhận được hồi âm. Sau đó tôi đưa bà thăm mộ Châu, nhìn hình ảnh người Mẹ già lưng còng gối mõi đã và đang khóc măng non khiến lòng tôi quá đổi đau lòng, tôi dang rộng đôi tay ôm choàng lấy tấm than gầy guộc của Bà và thiều thào, “ xin Bác dằn bớt cơn đau buồn, cháu sẽ thay Châu làm con trai của Bác”. Tiếng khóc càng nức nở hơn sau câu nói, dường như tôi đã cho Bà thêm chút niềm vui và sức sống. Nhưng chĩ vài tháng sau khi tôi trở về Mỹ thì được tin Bà cũng đã ra đi và đến với người con trai bất hạnh của Bà.

Mùa GIÁNG SINH 2007 này qua hình ảnh T/U Lăng Tích Hương, người chiến sỉ mủ đỏ ngày nào, người bạn đồng môn khóa “BẤT KHUẤT”, người thương binh VNCH bị bỏ rơi nơi miền khổ nạn và cũng qua cái công viêc làm đầy ý nghĩ của anh em khóa 10B/72 {QUỶ TƯƠNG TRỢ ĐÔNG MÔN}. Tôi cũng đang tưởng nhớ đến T/U Châu người chiến sỉ mủ đen ngày nào, Anh đã yên nghĩ nơi cõi vĩnh hằng khi mới bước vào cái tuổi “TỨ THẬP NHI BẤT NGOẶT”. Xin thắp nén hương lòng cho bạn “T/U PHẠM MINH CHÂU”. Bất chợt nhớ đến bài thơ cũa người thi sĩ trây di PHAN LẠC GIANG ĐÔNG với đề tựa “Nói với thế hệ thứ ba để tiếp nối cuộc trường chinh tổ quốc”


Đã nhiều lần ta tìm trong ký ức

Không thấỳ gì ngoài máu lửa thù căm

Không thấy gì ngoài hàng hang lớp lớp

Bè bạn bỏ đời, rồi bè bạn đứng lên

Những ngọn cỏ xanh đã một lần đơm nụ

Đã tức tưởi miên trường , tức tưởi gảy ngang

Những ngọn cỏ xanh vùi rạn vào thân thể

Làm đá lót đường cho thế hệ thứ ba

Ôi ! chinh chiến đong đầy nước mắt


ĐÊM ĐÔNG Mùa GIÁNG SINH 2007

Trần Công Định SVSQ Khoa 10B72



Báo Người Việt Online
Sổ tay:
Thư của một thương binh VNCH từ trong nước gửi nhân dịp Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” kỳ II
Monday, August 04, 2008



Kính gửi cộng đồng người Việt tự do hải ngoại,

Quý vị kính mến,

Tôi rất là vui trong niềm tin phấn chấn khi được mượn trang giấy này để trải lên đây dòng tâm tình của một tập thể anh em phế binh chúng tôi ở tại Việt Nam, mong được bầy tỏ niềm chân thành khi nhớ đến tấm lòng cứu giúp của quí vị đã liên tục chiếu cố đến chúng tôi ở khắp mọi nơi trên quê hương Việt Nam trong nhiều năm qua.

Quí vị đã đến với anh em khổ nạn tại quê hương, đến bằng tất cả chân tình quí trọng, xuyên qua biết bao nhiêu lần cứu giúp và nâng đỡ trường kỳ, liên tục, bằng tiền bạc, thuốc men, xe lăn, phương tiện chỉnh hình, phương tiện sinh sống v.v...

Trong đêm đen, cứu tinh là ánh sáng.

Trong khổ đau cứu tinh là tình thương và,

Trong cơ cảnh sa sút, kiệt quệ, cứu ttinh là giúp đỡ.

Từng kiếp sống tàn tạ, từng trường hợp hoạn nạn, từng cơ cảnh sa sút khốn khổ, tất cả đã được quí vị lắng nghe và tận tình giúp đỡ bằng nhiều cách thiết thực, cho chúng tôi được tồn tại mạng sống, được khôi phục cuộc đời và định lại giá trị nhân phẩm trong kiếp sống làm người cho có ý nghĩa.

Quý vị ân nhân kính mến,

Nơi đất khách quê người, đồng tiền làm ra bằng bao công sức khó nhọc của quý vị, và đồng tiền được quyên góp lại với nhau, chắt chiu, tằn tiện, để rồi từng đợt, từng kỳ, đồng tiền nghĩa tình cao quí này đã tuôn đổ về Việt Nam đến từng người phế binh VNCH, trao biếu tận tay để cứu giúp cho trăm ngàn vạn những mảnh đời tủi nhục, tàn phế.

Quý vị biết không, đã có nhiều lúc và nhiều nơi, khi các gia đình phế binh VNCH gặp hoạn nạn thì:

- Tình thương và sự giúp đỡ của quí vị đến kịp lúc, đã ngăn được dòng nước mắt của những người vợ TPB đang lo sợ, khi nhìn thấy chồng đang trong cơn đau đớn bệnh hoạn mà không tiền thang thuốc.

- Tình thương của quý vị đã làm rạng rỡ nụ cười trên khuôn mặt già nua của nhiều bà mẹ phế binh khi thấy được sự giúp đỡ trân trọng và quí mến của quý vị cho những đứa con cụt què, đui mù, bại liệt.

- Tình thương của quý vị đã giúp cho con cháu của phế binh chúng tôi học được bài học cao quý của tình thương và tình người.

Quý vị kính mến,

Chúng tôi được biết sẽ có một Ðại Nhạc Hội “Nhớ Ơn Người Thương Phế Binh VNCH” được chị Hạnh Nhơn, anh Lê Quí cùng với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH liên hợp tổ chức với sự yểm trợ của nhiều hội đoàn cùng đồng bào người Việt bên đó.

Nghe tin này, nhiều anh em chúng tôi đã bật khóc, khóc vì xúc động khi cảm nhận được rằng: Những mảnh đời khốn cùng với xác thân què cụt, đui mù, bại liệt mà bị thế thái nhân tình rẻ rúng lại được một cái giá thật ý nghĩa trước tình thương và tấm lòng yêu chuộng của cộng đồng người Việt, đồng bào nơi hải ngoại.

Thư đã dài, xin dừng bút. Tâm thành kính chúc sức khỏe tốt có được nơi quý vị, đó là niềm vui cho anh em chúng tôi. Sự an lành thịnh vượng luôn có được nơi quý quyến của ân nhân là lòng nguyện cầu của chúng tôi và sự thuận lợi, thành đạt trong cuộc sống cũng như trong mọi công cuộc thiện nguyện cao quí của quý vị và là sự phấn chấn vươn đầy sức sống của phế binh VNCH tại quê hương Việt Nam, những kẻ đã được quý vị cảm thông và hết lòng giúp đỡ.

Saigon, ngày 28 tháng 4 năm 2008

Tập thể Thương Phế Binh VNCH tại Việt Nam đồng ký tên.




THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH

MƯỜNG GIANG
Kính tặng tất cả TPB.VNCH

Những ngày tháng tư năm đó, không biết sao mà trời bổng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.

Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù đạn pháo.

“ Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn ?
cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi ”

Bốn câu thơ cổ trong bài ‘ Lương Châu Từ ‘ của Vương Hàn (687-726) đã nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về ? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến củ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.

Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa củ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời, mẹ bỏ con trong gánh, dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và Pháp.Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với bom đạn làm rách vở da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì ‘ tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái, mà giôc ngước cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.
Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò người lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo trùng hằng Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đả trả xong cái nợ ‘ da ngựa bọc thây ‘, tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép kín.
Trưa 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương, trên sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17, tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ Xã Hội Chủ Nghĩa đệ tam quốc tế cọng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Viết. Cũng từ giơ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cọng sản đã cởi, để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẳng, Phan Thiết, Sài Gòn..bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.
Ai chẳng một lần về với đất ? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc..và ngay tại Sài Gòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC giết chết. Họ ở lại làm vật hy sinh cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ dân tới lính, bình yên di tản.
Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, aó gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ huy và đồng đội củ.

‘ Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngả đoạn trường. Có làm dân thời ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh sau khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời ?

‘ ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu
là cầu đem người sang sông
hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường ..’

1-THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH:

Đọc Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch Ốc vừa được công bố, đa làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương xót cho những đồng đôi, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được giội bom vào xe của VC khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không giội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia..
Chính phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự, quốc phòng cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719.. Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP Mỹ Phil Golding, thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ:’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với nhữn mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được ‘.
Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần thắng ‘, nên dân chúng đã xuống đường, đã đảo mà báo chí thời đó, gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Đốn ‘ Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’
Tóm lại qua cuộc chiến VN, do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCGH, dù là một quân đội bất hạnh nhất thế giới, theo báo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố vấn Mỹ tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, CHỈ CÓ CHẾT, TÀN PHẾ HAY ĐÀO NGỦ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong thời loạn lạc.
Ngoài ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VM đào ngủ, nhưng không phải họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà gia nhập lực lượng DPQ+NQ, để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đình. Sau rốt, tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231.508 tử sĩ và 95.371 phế binh. Thương tủi nhất là những ngày tháng sau đó, cho tới khi Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội gục ngã trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn. Nhiều tử sĩ cũng như thương binh đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội không thể làm gì hơn giữa chốn loạn quân. Chính Nhảy Dù từ ngày thành lập cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt lệ, bỏ lại xác đồng đội, tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn đã viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm, mịt mù lửa đạn..
Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mã, Huế-Đà Nẳng và Sài Gòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và người Mỹ khinh miệt.
Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự thật đã xác nhận ‘ KHÔNG ‘. Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục., vẫn không thiếu những binh sĩ đào ngủ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng và chính cưu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định. QLVNCH chỉ mới thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn địch.

Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ..vậy mà họ vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ, mạng người Nam VN lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sài Gòn, trên các đại lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975. Như sử gia Edward S.Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Fifteen Decisive Battle Of The World ‘ năm 1851 ‘ Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai ‘. Những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 33 năm bị cong sản cưởng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S.McNamara, cựu bộ trưởng QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều, trong hồi ký của mình ‘ In Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN ‘.

Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát, bỏ đồng minh tháo chạy về nước trước sự tấn cộng của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ.
Không có gì tồn tại với thời gian trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ: ‘ cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ ‘.
Đây là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry H.Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm ‘ Heroic Allies ‘ nói lên vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm sỉ, tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố lăng và cuồng ngạo của Hà Nôi cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét, không còn gì để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều hâu, bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.
Trong tài liệu đặc biệt ‘ How Media Bias Distorts Our View of the World ‘ của ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng tay sỉ nhục bôi lọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng đã làm cho cọng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng trọng trong xã hội lúc đó, là những công tử tiểu thu đài cát của giới địa chủ, địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bốc lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học thành luật sư, bác sỷ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước vào năm 1954.
Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm lạc, nghĩ rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên nỗi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu..trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cọng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản, của người Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.
Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu ở hậu phương . Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật, có kèm hình ảnh, không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ những quân đội, đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’, theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày di tản máu lửa hận hờn
Người lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa rìu truyền thông báo chí trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên kết bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ tất yếu của một dân tộc hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận nhược tiểu

2 - THƯƠNG QUÁ NGƯỜI PHÊ BINH VN:

Tất cả hình như chỉ còn có kỹ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.

Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đả đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa củ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:

‘ Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh..’
( Tô Thuỳ Yên)

Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử củ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới vở lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẽ sỉ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.

‘ Tôi không là tôi nửa,
từ khi được xuất ngủ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..’

Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già, từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:

Theo sử liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trược thuộc Bộ Quốc Phòng. Đầu tiên Nha này là một Bộ, được thành lập vào tháng 8-1952, có một An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các vấn đề liên hệ tới cưu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi là Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh.

Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sài Gòn. Ngày 29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC đưọc thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và các Ty trực thuộc .

Đầu năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đó là vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 Tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quóc Anh, với sĩ quan hành chánh Đặng Mai, toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh Hòa lúc đó là Đại Tá Lý bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Biệt Lập, ra lệnh cho DPQ bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam Ranh.

Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi quyền sống. Taị Sai Gòn, Trung Úy mù BDQ.Đổ văn Lai cùng một số phế binh nặng, đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình, đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm cho chính quyền trung ướng cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai nỡ xuống tay .

Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sài Gòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu, tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Hàng thành lập.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt. Từ năm 1972, chính phủ cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh tai các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rải, ngoại trừ sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ
dó, nguời cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn buổi trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.

Rồi thì hằng loại Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, dược trợ cấp một ngân khoản 60.000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.

Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..

‘ Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo ngưởi xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..’
(Phạm Duy).

Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.

Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nửa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường

Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nửa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả cọng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.

Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ củ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi..thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.

19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.

Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về ? Có ai cầm được nưóc mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.

Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi ba năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì. bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy củ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.

- Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối
- Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.

Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:

‘ Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già ..’
(Chinh Phụ Ngâm)

Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH ?

‘ Dâu binh lửa nước non như củ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương’
(Chinh Phụ Ngâm)

Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nổi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ . Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đở tận tình ‘ Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH ‘, hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.


Xóm Cồn Ha Uy Di
Thang 8-2008
Mường Giang